Đề xuất tính thuế 20% trên lãi từng lần chuyển nhượng bất động sản

Bộ Tài chính đề xuất áp dụng phương thức đánh thuế 20% trên giá trị chênh lệch giữa giá mua và bán bất động sản theo từng lần chuyển nhượng.

Nội dung trên nêu tại hồ sơ dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế) được Bộ Tài chính lấy ý kiến.

Theo đó, Bộ này đề xuất áp dụng thuế thu nhập cá nhân với chuyển nhượng bất động sản của cá nhân bằng thu nhập tính thuế nhân (x) với thuế suất 20% theo từng lần chuyển nhượng.

Thu nhập tính thuế này được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản.

Trường hợp không xác định giá mua và các chi phí liên quan, thuế thu nhập cá nhân được tính bằng giá bán nhân (x) với thuế suất. Mức thuế suất trong trường hợp này sẽ theo thời gian sở hữu, tối đa 10%.

Thời gian nắm giữ bất động sản tính từ khi cá nhân có quyền sở hữu, sử dụng bất động sản (từ ngày Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế) có hiệu lực) đến thời điểm chuyển nhượng.

Với bất động sản có nguồn gốc từ nhận thừa kế, thuế suất chuyển nhượng vẫn như hiện hành, ở mức 2%, mà không tính theo thời gian nắm giữ. Bởi, Luật Dân sự quy định thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, khác với cho, tặng bất động sản.

Thời điểm xác định thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng bất động sản là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực hoặc thời điểm đăng ký quyền sử dụng, sở hữu bất động sản.

Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là một nguồn thu quan trọng trong hệ thống thuế thu nhập cá nhân. Từ năm 2015, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế thu nhập cá nhân, mức thu thống nhất là 2% trên giá chuyển nhượng bất động sản.

Trước đó, tại hội thảo vào tháng 3, PGS.TS Phan Hữu Nghị, Phó Viện trưởng Ngân hàng – Tài chính (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng cách tính thuế hiện hành còn nhiều hạn chế. Cụ thể, thuế thu nhập cá nhân cho chuyển nhượng bất động sản được tính là 2% trên giá trị giao dịch. Tức là, người bán phải nộp thuế bằng 2% tổng giá trị bất động sản ghi trên hợp đồng chuyển nhượng, không quan tâm đến việc lãi hay lỗ. Theo chuyên gia, cách tính này đơn giản, dễ thu, nhưng lại tạo ra lỗ hổng lớn trong việc kê khai giá bán. Thực tế, người bán thường khai giá chuyển nhượng thấp hơn để giảm số thuế phải nộp, dẫn tới thất thu ngân sách, thị trường bất động sản thiếu minh bạch.

Do vậy, một số chuyên gia đề xuất đưa về đánh thuế 20% trên thu nhập thực tế của người bán. Với trường hợp không có đủ hóa đơn chứng từ, cơ sở để tính lãi lỗ, họ đề xuất áp dụng mức ấn định 1-2% theo bảng giá do UBND tỉnh, thành phố quy định. Phương án này được cho là có lợi thế hơn do phản ánh chính xác thu nhập thực tế.

Theo Bộ Tài chính, một số quốc gia đã sử dụng các công cụ thuế thu nhập cá nhân để tăng chi phí và giảm sức hấp dẫn của hành vi đầu cơ bất động sản trong nền kinh tế. Một số nước còn áp dụng thuế với lợi nhuận từ giao dịch bất động sản phù hợp với tần suất giao dịch, thời gian mua bán lại bất động sản.

Chẳng hạn, nếu thời gian này diễn ra càng nhanh thì thuế suất càng cao, diễn ra chậm hơn thì mức thuế thấp hơn. Bộ này dẫn kinh nghiệm của Đức cho biết nước này có hai sắc thuế chính để hạn chế đầu cơ là thuế chuyển nhượng bất động sản và thuế thu nhập. Thuế thu nhập từ bất động sản áp dụng mức thuế suất từ 14-42%. Cá nhân mua bán được miễn loại thuế này khi bất động sản sở hữu trên 10 năm hoặc không phải vì mục đích kinh doanh.

Tại Mỹ, chính sách chống đầu cơ bất động sản tùy thuộc vào luật riêng tại từng tiểu bang. Ở thành phố San Francisco, một người mua nhiều bất động sản và bán dưới 5 năm sẽ chịu mức thuế chuyển nhượng nhà là 14-24%.

Tương tự, tại Singapore, đất mua đi bán lại trong năm đầu tiên bị đánh thuế 100% trên giá trị chênh lệch mua bán, sau đó giảm dần với các thời hạn dài hơn.

Bộ Tài chính cho biết việc áp thuế bất động sản trên cơ sở thu nhập theo từng lần như đề xuất sẽ như thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, cơ quan này thừa nhận để thực hiện hiệu quả phương pháp này, nhà điều hành cần có cơ sở dữ liệu về lịch sử giao dịch của bất động sản để xác định giá vốn, điều kiện về hóa đơn chứng từ chứng minh các chi phí. Đồng thời, các chính sách liên quan tới đất đai cần được đồng bộ, cũng như mức sẵn sàng của hạ tầng công nghệ thông tin về đăng ký, chuyển nhượng đất đai, bất động sản.

Nguồn: https://vnexpress.net/de-xuat-tinh-thue-20-tren-lai-tung-lan-chuyen-nhuong-bat-dong-san-4916909.html


Đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh lên 15,5 triệu đồng/tháng từ năm 2026

Nếu nghị quyết được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, mức giảm trừ gia cảnh sẽ được áp dụng từ năm 2026.

Bộ Tài chính vừa có dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân từ kỳ tính thuế năm 2026.

Bộ Tài chính đề xuất tăng mức giảm trừ gia cảnh

Dự thảo nghị quyết đã đề xuất 2 phương án về mức giảm trừ gia cảnh. Phương án 1: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 13,3 triệu đồng/tháng (159,6 triệu đồng/năm); mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 5,3 triệu đồng/tháng.

Phương án 2: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng (186 triệu đồng/năm); Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 6,2 triệu đồng/tháng.

Bộ Tài chính đề xuất khi Nghị quyết được thông qua, sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2026.

Theo quy định hiện hành, mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng và giảm trừ mỗi người phụ thuộc 4,4 triệu đồng/tháng, duy trì từ tháng 7-2020.

Như vậy ở phương án 1, mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế sẽ tăng 2,3 triệu đồng/tháng; người phụ thuộc là 0,9 triệu đồng/tháng. Phương án 2 tăng 4,5 triệu đồng/tháng với cá nhân người nộp thuế, người phụ thuộc sẽ tăng 1,8 triệu đồng.

Tờ trình của Bộ Tài chính nêu rõ thời gian qua có ý kiến cho rằng mức giảm trừ gia cảnh vẫn còn thấp, nhưng cũng có ý kiến cho rằng mức giảm trừ hiện nay không thấp khi so sánh với mặt bằng chung về mức sống, thu nhập của người dân hiện nay, có nhiều người lao động hiện đang có thu nhập chưa đến mức phải nộp thuế.

Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng cần quy định mức giảm trừ gia cảnh theo mức lương tối thiểu vùng, mức giảm trừ gia cảnh ở các đô thị, thành phố lớn cần phải cao hơn ở khu vực nông thôn, miền núi do chi phí đắt đỏ hơn; cũng có ý kiến cho rằng phải có chính sách thuế điều tiết cao hơn đối với cá nhân ở các đô thị, thành phố lớn để hạn chế nhập cư, di dân vào các đô thị lớn…

Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, người phụ thuộc của người nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân là mức cụ thể theo mặt bằng chung của xã hội, không phân biệt người có thu nhập cao hay thấp, với nhu cầu tiêu dùng khác nhau và sống ở các địa bàn khác nhau.

Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ở các nước, bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển chỉ quy định mức giảm trừ gia cảnh chung, áp dụng thống nhất, không phân biệt theo địa bàn và các bộ phận dân cư.

Đối với các cá nhân làm việc tại các địa bàn khó khăn, Luật Thuế Thu nhập cá nhân đã quy định không tính vào thu nhập chịu thuế khoản trợ cấp khu vực, trợ cấp thu hút, trợ cấp chuyển vùng… nhằm hỗ trợ người lao động cũng như thu hút cá nhân làm việc tại các địa bàn này.

Trước đó, tại phiên chất vấn của kỳ họp thứ 9 ngày 19-6, trả lời đại biểu Quốc hội về các chính sách thuế, phí hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết thêm Bộ Tài chính đang tham mưu Chính phủ trình ban hành Nghị quyết của UBTVQH điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của Luật thuế thu nhập cá nhân.

Theo Minh Chiến (Nld.com.vn)

https://nld.com.vn/de-xuat-nang-muc-giam-tru-gia-canh-len-155-trieu-dong-thang-tu-nam-2026-196250721114856927.htm

TIN LIÊN QUAN
error: